Chùa Cổ Lễ tên chữ là “Thần Quang tự” tọa lạc tại trung tâm thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, cách thành phố Nam Định khoảng 16km về hướng Đông Nam. Đây là ngôi chùa có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết định số 28/VH – QĐ, ngày 18/11/1988.
Chùa Cổ Lễ ngoài thờ Phật còn thờ Đức Thánh tổ - Thiền sư Nguyễn Minh Không, thế danh là Nguyễn Chí Thành, quê làng Đàm Xá (Đàm Giang), thuộc đất Trường Yên, nay là xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng và là ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam. Với nhiều pháp thuật kỳ diệu, ngài thường chu du khắp nơi chữa bệnh cứu dân, từng chữa khỏi bệnh “vua hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được phong làm Quốc sư.
Theo truyền thuyết dân gian và tư liệu lịch sử ghi chép trong các sách: Đại Nam nhất thống chí, Lĩnh Nam chích quái, Nam ông mộng lục, Thiền uyển tập anh... chùa Cổ Lễ do Quốc sư Nguyễn Minh Không xây dựng từ thời Lý (thế kỷ XII). Điều này cũng được ghi nhận trong câu văn của bài minh, khắc trên chuông đồng đúc vào niên hiệu Cảnh Thịnh 7 (1799) lưu giữ tại chùa: “Chân cảnh trời Nam, Thánh tổ đản giáng, dựng chùa Thần Quang”. Ghi nhớ công lao to lớn của Đức Thánh tổ - Thiền sư Nguyễn Minh Không, nhân dân đã tạc tượng thờ ngài tại chùa theo nghi thức: “tiền Phật, hậu Thánh”.
Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, dấu tích xưa của ngôi chùa cổ đã bị phai mờ. Đến cuối thế kỷ XIX, cảnh chùa chỉ còn lại một am nhỏ với nhiều di tích đổ nát. Năm 1902, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên đến trụ trì tại chùa đã kêu gọi các tín đồ, thập phương đóng góp tiền của, công sức để xây dựng lại chùa. Trong khoảng thời gian từ năm 1914 - 1919, với tâm huyết và biệt tài xây dựng những công trình kiến trúc chùa, tháp, không cần bản vẽ thiết kế, không vật liệu xây dựng hiện đại như xi măng, sắt thép, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên đã kiến tạo lại toàn bộ công trình chùa Cổ Lễ thành những nhóm kiến trúc có giá trị nghệ thuật riêng biệt nhưng vẫn hòa nhập với tổng thể cảnh quan mang phong cách “cửa Thiền trên nền văn hóa dân tộc, phương Đông kết hợp với phương Tây”. Tiếp bước Hòa thượng Phạm Quang Tuyên, Hòa thượng Phạm Thế Long và các thế hệ sư trụ trì kế cận đã kêu gọi tín đồ phật tử cùng nhân dân đóng góp sức người, sức của để xây dựng, hoàn thiện thêm những công trình thờ tự khác hòa nhập với tổng thể cảnh quan, tạo sự nguy nga, tráng lệ cho ngôi chùa.
Sự kết hợp khéo léo giữa các yếu tố kiến trúc cổ truyền với kiến trúc Gôtích đã tạo nên nét khác biệt và độc đáo của chùa Cổ Lễ với các ngôi chùa khác. Nếu như chùa cổ Việt Nam thường thấp và trải rộng về bề ngang với bộ khung gỗ lim vững chắc thì chùa Cổ Lễ không những rộng mà còn rất cao với kết cấu mái vòm kiên cố. Nhìn từ xa, chùa giống như một nhà thờ công giáo nhưng đến gần sẽ nhận thấy ngay đây là một ngôi chùa bởi đôi rồng chầu rất lớn ở phía trước và các họa tiết trang trí khác như: phượng vũ, sen quy...
Chùa Cổ Lễ là một chỉnh thể gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau được xây dựng trên một diện tích gần 10 mẫu Bắc bộ, trải rộng theo hướng Đông - Tây. Tổng thể công trình kiến trúc từ ngoài vào trong được sắp xếp theo thứ tự: cổng chùa, tháp Cửu phẩm liên hoa, cầu cuốn, tam quan, nhà hội quán, đền Thánh, đền Mẫu, hai cầu núi, chùa chính, nhà tổ, nhà khách, phòng tăng, pháp đường, tòa Kim chung bảo các, vườn tháp... Trong đó, tháp Cửu phẩm liên hoa là công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật tiêu biểu nhất, đồng thời cũng là điểm nhấn trên tổng thể mặt bằng công trình chùa Cổ Lễ.
(Ảnh: Đỗ Ngọc Hà)
Tháp Cửu phẩm liên hoa do Hòa thượng Phạm Quang Tuyên thiết kế, xây dựng vào năm Đinh Mão, niên hiệu Bảo Đại 2 (1927). Đây là một di sản văn hoá kiến trúc độc đáo, được thiết kế theo dạng “Phù đồ” (Stupa) là loại kiến trúc nhiều tầng vươn cao dần lên không trung, một đặc trưng của công trình kiến trúc Phật giáo.
Tháp cao 32m, có tiết diện hình bát giác (diện tích rộng 42,10m2), được dựng giữa hồ nước lớn (kích thước 22,85m x 18,35m). Nền tháp thể hiện bằng một con rùa, mai rùa được cách điệu, lượn cong thành 8 múi. Bốn chân rùa vươn dài trụ vững xuống lòng hồ, đầu rùa hướng vào trong chùa, đuôi hướng ra phía ngoài. Rùa biểu tượng cho sự vững trãi, trường tồn, tháp “Cửu phẩm liên hoa” xây trên lưng rùa (Tháp rùa) một biểu tượng của văn hóa Phật giáo Tịnh độ, cũng là biểu tượng cho sự vững trãi, trường tồn của Phật pháp.
Tháp cấu trúc theo kiểu “cửu phẩm liên hoa”, nghĩa là do 9 tầng hoa sen liên kết tạo thành, mang ý nghĩa “cửu trùng” là 9 tầng trời phật, một đặc thù tín ngưỡng của đạo Phật Thích Ca. Lòng tháp được thiết kế hình xoắn ốc, ở giữa là một trụ tròn, vòng quanh từ chôn ốc lên đến đỉnh là 64 bậc thang, tương ứng với 64 quẻ của Kinh dịch. Bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc dưới chân tháp đắp voi và núi giả đã làm tăng vẻ hùng vĩ cho cây Bảo tháp.
Tháp chùa Cổ Lễ thuộc dạng tháp thờ Phật và Bồ Tát, tầng trên cùng thờ Phật A Di Đà, đức Phật chủ trì thế giới Tây Phương cực lạc. Trên 4 mặt chính của tháp đều thể hiện các tên hiệu Phật thông qua các câu kệ: Nam mô Liên trì hộ thượng Phật Bồ Tát, Nam Mô Tây Phương cực lạc A Di Đà Như Lai, Nam mô Quan âm Đại thế chí Bồ Tát và Nam mô Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát. Mặc dù, tháp chùa Cổ Lễ được nhà sư Phạm Quang Tuyên xây dựng vào đầu thế kỷ XX nhưng vẫn mang phong cách kiến trúc thời Lý: tháp dựng phía trước chùa.
Ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, chùa Cổ Lễ còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật mang giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ của nhiều giai đoạn khác nhau như: tượng Đức Phật Thích Ca, cao 4,20m, ngang 3,50m, sơn son thếp vàng trên nền gỗ bạch đàn ngự giữa tòa sen trong tư thế nhập thiền; tượng Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không bằng gỗ trầm hương trắng; trống đồng (tương truyền có từ thời Lý); lá cờ thần hai mặt ghi: “Nam thiên Thánh Tổ” và “Lý triều Quốc sư”; chuông đồng thời Tây Sơn, nặng 300kg, đúc năm Cảnh Thịnh 7 (1799); chuông Đại Hồng Chung lớn nhất cả nước cao 4,20m, đường kính 2,20m, nặng 9 tấn, đúc năm Bảo Đại 11 (1936) và 4 thuyền trải dùng để thi bơi trong lễ hội truyền thống.
Không chỉ có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, chùa Cổ Lễ còn được biết đến là một di tích cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Cổ Lễ trở thành cơ sở hoạt động cách mạng. Từ nơi đây, nhiều nhà sư đã tạm biệt “cửa thiền” ra trận. Đặc biệt, ngày 27-2-1947, tại chùa, dưới sự chủ trì của Hòa thượng Thích Thế Long (Phạm Thế Long), chính quyền địa phương, các tín đồ phật tử và nhân dân trong vùng đã tổ chức mít tinh làm lễ phát nguyện cho 27 nhà sư cởi áo cà sa lên đường tòng quân đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc. Bản thân Hòa thượng Phạm Thế Long là một nhà hoạt động cách mạng, sau này giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, khóa VII.
Chùa Cổ Lễ bảo lưu giá trị văn hóa phi vật thể thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội. Hàng năm, từ ngày 13 đến 16 tháng Chín, chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng niệm ngày Đức Thánh tổ hóa thân (14/9), một ngày trọng đại đã đi vào tiềm thức nhân dân trong vùng với câu ca:
“Dù ai buôn bán trăm nghề
Mười tư tháng Chín thì về hội Ông”
Từ lâu, chùa Cổ Lễ đã trở thành điểm du ngoạn hấp dẫn của khách thập phương trong và ngoài nước. Đến với chùa Cổ Lễ, du khách không những được tận mắt chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, ôn lại công tích, tưởng nhớ tới Quốc sư - Đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không mà còn có dịp lễ Phật, tắm mình trong cõi tâm linh hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
Lê Quỳnh Nga
Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ Di tích