Di tích Quốc gia đặc biệt Chùa Keo Hành Thiện 01/04/2021


Chùa Keo Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, gồm: chùa Keo trong (Thần Quang tự) và chùa Keo ngoài (Đĩnh Lan tự), tọa lạc tại thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, cách thành phố Nam Định khoảng 40km về hướng Đông Nam. Đây là ngôi chùa có giá trị đặc biệt về kiến trúc nghệ thuật đã được Toàn quyền Đông Dương liệt hạng cổ tự từ năm 1925, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia năm 1962 và năm 2013, Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12 /2016.
Chùa Keo Hành Thiện thờ tự theo kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”, ngoài thờ Phật còn thờ Đức Thánh tổ, Thiền sư Dương Không Lộ, một nhân vật lịch sử có công lớn đối với vương triều Lý, được vua Lý phong làm Quốc sư kiêm Đại pháp sư. Nhân dân ở nhiều vùng còn truyền tụng, thờ phụng Thiền sư về công lao đánh giặc, giết quỷ quái, là người dạy dân nghề đánh cá, trồng lúa, đúc đồng, đan lát. Nhân dân làng Hành Thiện thờ phụng Thiền sư Dương Không Lộ với tư cách là vị sư tổ sáng lập chùa, vị Phúc thần, Thành hoàng, người có công lao khai sáng và tạo lập làng Hành Thiện.
Chùa Keo trong ban đầu có tên là chùa Nghiêm Quang, sau đổi là chùa Thần Quang, do Đức Thánh tổ Dương Không Lộ cho xây dựng vào năm Tân Sửu (1061), đời vua Lý Thánh Tông. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, đến thời Hậu Lê, vào năm Mậu Tý (1588) và Tân Hợi (1611), nước sông Hồng dâng cao, gây vỡ đê, lụt lớn, làng mạc bị cuốn trôi. Chùa Keo cùng nhiều đình chùa, miếu mạo trong vùng  đã bị vùi lấp.
Sau sự kiện đó, nhân dân vùng này phải chuyển đi hai nơi, tạo lập làng mới. Một bộ phận dời sang tả ngạn sông Hồng lập làng Dũng Nhuệ (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), phần chuyển đến vùng hữu ngạn sông Hồng lập nên làng Hành Cung sau đổi tên là làng Hành Thiện. Dân hai nơi đều kiến thiết xây dựng một ngôi chùa mới nhưng có chung phong cách thờ tự “tiền Phật, hậu Thánh” cùng thờ Thiền sư Dương Không Lộ và vẫn mang tên cũ là chùa Keo (Thần Quang tự). Tấm bia cổ nhất tại chùa “Tu tạo Thần Quang tự bi ký” soạn vào ngày 25 tháng 8, niên hiệu Hoằng Định 13 (1613) xác nhận chùa Thần Quang đã được xây dựng vào thời điểm này. Kể từ đó đến nay, chùa đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, tôn tạo.
Chùa Keo đã cho chúng ta thấy một mô hình chùa “tiền Phật, hậu Thánh”, dạng thức chùa “trăm gian” điển hình, với nhiều công trình trải dài trên một diện tích rộng lớn. Chùa là một tổng thể phức hợp của các đơn nguyên kiến trúc phân bổ theo một trật tự nhất định trên một khuôn viên hình chữ nhật kiểu “nội công, ngoại quốc”; mặt bằng các công trình được cân đối theo một trục dọc - đường thần đạo, bao gồm: tam quan ngoại, tam quan nội kiêm gác chuông, phủ Mẫu, hành lang, chùa Phật, đền Thánh, nhà ký đồ, nhà tổ, nhà oản, nhà bếp… với 13 tòa, 119 gian. Nếu tính thêm các công trình được xây dựng và tôn tạo sau này thì tổng thể chùa có tới 17 tòa, 149 gian. Tổng thể ngôi chùa là sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan không gian và các hạng mục công trình kiến trúc. Mỗi công trình được xây dựng ở chùa có một kiểu dáng kiến trúc khác nhau, phù hợp với từng công năng sử dụng. Giá trị nổi bật về kiến trúc của ngôi chùa là hai công trình tam quan nội kiêm gác chuông và đền Thánh.
Tam quan nội kiêm gác chuông là công trình kiến trúc bảo lưu đuợc nhiều yếu tố từ thế kỷ XVII. Tam quan được xây sát đường đi, gần hồ nước có mặt bằng hình chữ nhật, dài 12m, rộng 6,55m, gồm 5 gian (3 gian 2 chái), 2 tầng, 2 lớp mái (8 mái) theo kiểu chồng diêm với vẻ thanh thoát, mái cong, bờ cánh kẻ bẩy uốn lượn. Trên các cấu kiện gỗ được trang trí các đề tài mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Chủ đạo là đề tài rồng trang trí tại các đầu dư với nghệ thuật chạm bong kênh. Đề tài hoa sen được thể hiện ở diềm tầng mái trên, chạm nổi kết hợp với hình tượng cúc mãn khai. Đề tài vân xoắn thể hiện trên các thân rường và đầu bẩy. Theo các nhà nghiên cứu về mỹ thuật kiến trúc thì tam quan nội kiêm gác chuông chùa Keo Hành Thiện mang đậm yếu tố thuần Việt và có thể khẳng định là một trong những tam quan - gác chuông sớm và đẹp nhất ở Việt Nam.
Đền Thánh nằm sau chùa Phật, kiến trúc theo kiểu chữ “công”, gồm 3 toà: tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian và hậu cung 3 gian. Các nghệ nhân xưa đã dồn toàn bộ trí lực, tài hoa được thể hiện qua nghệ thuật điêu khắc, trang trí làm cho đền Thánh có vẻ đẹp hơn hẳn chùa Phật. Các mảng chạm khắc tinh xảo tập trung trên các mảng đố lụa, khung bạo, con rường, kẻ, bẩy của từng tòa. Đặc biệt chú ý là 3 bộ cánh cửa gồm 10 cánh ngăn cách giữa tiền đường và trung đường được chạm khắc thể hiện 10 đề tài khác nhau. Kỹ thuật chạm gỗ bong kênh ở cả hai mặt tiền 2 gian toà tiền đường đạt tới trình độ cao. Đề tài chạm khắc ở đây phong phú: rồng, lân, hoa cúc - mặt trời, phượng, vân xoắn, sừng tê ngọc báu, tứ linh, tứ quý… mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
Chùa Keo ngoài, tên chữ là Đĩnh Lan tự được xây dựng muộn hơn so với chùa Keo trong. Theo Hành Thiện xã chí thì chùa Keo ngoài được xây dựng từ năm Đinh Mùi (1787), niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên. Đến triều Nguyễn, niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832), dân làng xây dựng gác chuông. Niên hiệu Tự Đức 18 (1865), Phó bảng Đặng Kim Toán người làng Hành Thiện, làm Án sát Ninh Bình đã hưng công trùng tu lại chùa với quy mô lớn. Năm Tân Sửu (1901), niên hiệu Thành Thái 13, quan Tri huyện Nguyễn Ngọc Quỳnh người làng Hành Thiện cùng dân làng dựng thêm hai dãy hành lang để khách thập phương đến chùa có nơi nghỉ ngơi và sửa soạn đồ cúng lễ.
Chùa có kết cấu mặt bằng kiểu “nội công, ngoại quốc”, gồm: tam quan, hành lang, chùa chính (gồm: tiền đường, thiêu hương, thượng điện), gác chuông và nhà tổ, trong đó công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao là chùa chính và gác chuông. Trang trí trên cấu kiện kiến trúc tại các công trình này tập trung vào các vị trí ở phía trên các khung đố lụa của vách thuận, cùng các cấu kiện: ngưỡng, ván bưng, đố của hệ thống cửa mặt ngoài toà tiền đường. Các mảng chạm đó được thể hiện sinh động các đề tài: mặt trời, rồng, đao mác... mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVIII.
Lễ hội chùa Keo Hành Thiện là lễ hội lớn, tiêu biểu của tỉnh Nam Định được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Lễ hội truyến thống diễn ra vào trung tuần tháng Chín âm lịch kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh tổ Dương Không Lộ với nhiều nghi thức và trò chơi dân gian đặc sắc như: phụng nghinh; bơi trải; dựng phướn; rước đèn; thánh đản, múa rối, chèo cạn; cờ tướng, cầu đu, chọi gà, làm bánh dầy… Những sinh hoạt văn hóa dân gian diễn ra trong lễ hội mang đậm nét lễ hội của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước đã ăn sâu vào tiềm thức dân gian:
“Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm Rằm”.
Ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, chùa Keo còn lưu giữ được nhiều hiện vật, cổ vật mang giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ của nhiều giai đoạn khác nhau. Đó là hệ thống tượng pháp, bia ký, sắc phong, nhang án, kiệu, chuông, khánh, hoành phi, câu đối… thể hiện sự nâng niu, trân trọng những di sản văn hoá quý báu mà cha ông xưa để lại. Bên cạnh đó là những truyền thuyết về Đức Thánh tổ Dương Không Lộ được lưu truyền trong dân gian. Đây là những nguồn tư liệu phong phú, hấp dẫn và quý báu giúp các nhà nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực lý giải và nhận diện giá trị to lớn của di tích này đối với hệ thống di sản văn hoá của dân tộc qua các thời đại.
Phạm Văn Huyên
Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh
Một số hình ảnh về Di tích quốc gia đặc biệt Chùa Keo Hành Thiện:

Quang cảnh chùa Keo trong


Tam quan nội kiêm gác chuông tại chùa Keo trong




Mảng chạm khắc mang phong cách nghệ thuật TK XVII tại đền Thánh chùa Keo trong



Chùa Keo ngoài 


Bộ tượng Huyền Đàn mang phong cách nghệ thuật TK XVIII tại chùa Keo ngoài


Quang cảnh lễ hội chùa Keo


Bơi trải trong lễ hội chùa Keo


Giờ tham quan

Địa chỉ

Liên kết website

Số lượng truy cập